Home » » SÁM ĐẠI TỪ (Thập phương diễn nghĩa I)

SÁM ĐẠI TỪ (Thập phương diễn nghĩa I)

Đăng bởi Marketing Online Việt Nam on Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013 | 19:36


Mười phương cõi Phật hằng sa, 
Pháp vương thứ nhứt Di Đà lớn thay, 
Cảm oai đức Phật cao dày,
Ao sen chím phẩm độ nay phàm tình. 
Tôi tin có Phật gởi mình, 
Một bề lánh dữ theo lành mà thôi, 
Phước lành bằng chút mảy chồi, 
Gắng làm cho trọn lòng tôi không rời.
Nguyện đồng niệm Phật mỗi người, 
Cầu cho cảm ứng theo thời hiện ra, 
Mãn duyên thấy Phật Di Đà,
Tây phương chói rạng sáng lòa mắt tôi. 
Kẻ nghe người thấy tiếc ôi, 
Rủ nhau tin tưởng lần hồi tu theo, 
Tỏ đường sanh tử các điều, 
Y như Phật dạy, dắt dìu chúng sanh. 
Dứt lòng phiền não mê tình, 
Không lường pháp nhiệm nguyện hành học tu,
Thệ nguyện độ hết phàm phu, 
Đều nên đạo Phật ngao du độ đời. 
Lòng này chẳng dám lộng khơi. 
Hư không mòn hết nguyện tôi còn hoài,
Nguyện cho cây, cỏ, đá, chai, 
Bò, bay, máy, cựa, các loài thung dung, 
MỘT là nguyện Phật thần thông,
Chứng minh đệ tử thành công lâu dài. 
HAI là nguyện lạy Như Lai, 
Cầu cho già trẻ gái trai làm lành. 
BA là phát nguyện chí thành,
Cúng dường Tam Bảo tứ sanh khỏi nàn.
BỐN là nguyện dứt nghiệp oan, 
Vượt qua biển khổ ba đường thoát qua, 
NĂM là nguyện học Thiền na, 
Bạn lành nương cậy thầy tà lánh xa. 
SÁU là nguyện Phật nói ra,
Xoay vần chánh pháp khắp tòa đặng nghe.
BẢY là nguyện Phật chở che,
Ở lâu dạy bảo người nghe tỏ lòng. 
TÁM là nguyện bạn ở chung, 
Những lời Phật dạy học cùng với nhau.
CHÍN là nguyện trước nhớ sau, 
Thuận theo thế tục dám đâu trái lời. 
MƯỜI là nguyện khắp trong đời,
Quay mình bước tới thẳng dời Lạc bang.
Tôn sư diễn nghĩa ít hàng,
Cầu cho bá tánh Tây phương mau về. 
 
 

Bài sám của Tổ Đại Từ trước tác- Chưa rõ xuất xứ của Tổ - Được in trong hầu hết các kinh Nhựt Tụng từ xưa đến nay - Là bài sám Thập phương nghĩa, biên giả đặt cho mã số thống kê trong các dị bản là I. 
Chia sẻ bài viết này :

Đăng nhận xét

 
Copyright © 2011. Nhuận Huệ Ngọc - All Rights Reserved
Support : Chùa Hương Sen |Chùa Chánh Giác